HỖ TRỢ

Giỗ Tổ Hùng Vương – Ngày Hội Văn Hóa Tâm Linh của dân tộc

25/08/2020

Vua Hùng là nhân vật minh triết trong tâm khảm của người Việt. Ông được tôn là Vua, là minh chủ đồng thời là Thủy Tổ – Tổ của dân, của nước. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt.
Từ ngàn xưa và mãi mãi mai sau, trong tâm thức của người Việt “Vua Hùng”, “Tổ Hùng”, “con Lạc cháu Hồng”, “con Rồng cháu Tiên”, “dòng dõi Lạc Hồng”… luôn luôn là biểu tượng cao đẹp thiêng liêng

Xem nhanh

    Từ ngàn xưa, ông bà ta đã dạy: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” và cũng từ rất lâu thì con người đã biết đến nghi lễ thờ cúng. Từ nghi lễ thờ cúng trong cộng đồng, dần dần hình thành các tôn giáo khác nhau với những nghi lễ thờ cúng cũng có phần khác nhau. Việc tế lễ thờ phụng cũng khởi nguồn cho nghi thức cúng tế tổ tiên và thần linh. Có thể nói, nghi thức tế lễ, thờ phụng được hình thành và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Nghi thức tế lễ cho dù biến chuyển qua từng giai đoạn khác nhau nhưng sẽ mãi đồng hành cùng con người bởi “Con người có tổ, có tông. Như chim có tổ, như sông có nguồn.

     

    Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch năm 2020 tổ chức thế nào? - Giao Thông
    Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương – bản sắc văn hóa của người Việt

     

    1. Vua Hùng – Thủy Tổ của người Việt


    Dù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
    Dù ai buôn bán gần xa
    Nhớ ngày Giỗ Tổ tháng ba mồng mười.
    Vua Hùng là nhân vật minh triết trong tâm khảm của người Việt. Ông được tôn là Vua, là minh chủ đồng thời là Thủy Tổ – Tổ của dân, của nước. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt.
    Từ ngàn xưa và mãi mãi mai sau, trong tâm thức của người Việt “Vua Hùng”, “Tổ Hùng”, “con Lạc cháu Hồng”, “con Rồng cháu Tiên”, “dòng dõi Lạc Hồng”… luôn luôn là biểu tượng cao đẹp thiêng liêng. Đó là biểu tượng thiêng liêng nhất, cao đẹp nhất trong đạo lý nhân bản “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” với quan hệ đồng tộc, đồng bào.

    2. Chủ nhân của tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng


    Chủ nhân của tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng là người Việt ở Phú Thọ. Họ tôn thờ Vua Hùng như bậc Thánh Vương trong các đình, đền, miếu được xây dựng tại các làng, xã. Từ Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì là tâm điểm, tín ngưỡng này đã lan tỏa tới các tỉnh, thành trong cả nước và một số cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Khởi nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt đã thờ cúng Vua Hùng là Thủy Tổ khai sinh dân tộc, đất nước. Ý thức tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng đã thấm vào máu thịt của cộng đồng người Việt, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình tượng Vua Hùng đã gắn chặt với hồn thiêng sông núi đất Việt. Thánh Tổ Hùng Vương do nhân dân tôn vinh được các triều đình quân chủ phong kiến và nhà nước đương đại đồng thuận. Trên bình diện ý thức dân tộc ấy Thánh Tổ Hùng Vương được truy phong: Cao Sơn Thánh Vương, Viễn Sơn Thánh Vương, Ất Sơn Thánh Vương hay việc đồng nhất Hùng Vương với các vị thần núi ở các vùng miền khác trong pham vi cả nước.
    Vua Hùng gắn với người Việt không chỉ bởi ánh hào quang của lịch sử mà đó chính là sự phản chiếu hình ảnh của ông Vua mở nước, quy tụ thần linh, gắn kết lòng người bằng huyết tộc- đồng bào. Vua Hùng được cộng đồng tôn vinh là Thủy Tổ của người Việt và được khoa học ghi nhận là người đứng đầu Nhà nước Văn Lang trong buổi bình minh của lịch sử Việt Nam

    Giỗ Tổ Hùng Vương – Tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng


    Xuất phát từ đạo lý văn hóa “Ẩm hà tư nguyên/ Uống nước nhớ nguồn” nên thờ cúng Vua Hùng đã trở thành tín ngưỡng văn hóa đặc trưng, mang tính bản địa sâu sắc của người Việt. Ngày Giỗ Tổ không chỉ đơn thuần là ngày con cháu bốn phương hội tụ thắp hương cúng giỗ Tổ tiên mà còn là ngày giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cùng biên cõi. Trên khắp mọi nẻo đường, mọi vùng quê, chốn đầu non ngọn suối, trong tâm thức của người dân đất Việt đều khắc cốt ghi xương, sâu đậm ký ức thiêng liêng về một cội nguồn chung.


    Vào thế kỷ XV (năm 1470) nhà Hậu Lê cho biên soạn Ngọc Phả Hùng Vương với tên gọi đầy đủ là: “Hùng đồ thập bát diệp Thánh Vương ngọc phả cổ truyền/Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” đã xác định vị trí độc tôn dựng nước, sinh dân thuộc về các Vua Hùng. Cũng chính thức từ đây Đền Hùng được xác định là trung tâm/vùng lõi tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng của Người Việt. Với quan niệm văn hóa tâm linh “con cháu ở đâu thì ông bà, tổ tiên ở đấy”. Người Việt đã thờ cúng Vua Hùng như sự hiện diện đặc trưng bởi ý thức tự cường của một quốc gia hưng thịnh. Theo “Nam Việt thần kỳ hội lục” chép năm 1763 thì vào thế kỷ XVIII ở nước ta mới có 73 làng thờ cúng Hùng Vương, vậy mà tới năm 2005 theo sách “Những di tích thờ Hùng Vương ở Việt Nam” của Cục Văn hoá Thông tin cơ sở – Bộ Văn hoá – Thông tin đã có 1417 nơi thờ Hùng Vương và các nhân vật liên quan thuộc Triều Hùng.


    Trong ký ức của người Việt – Vua Hùng được khắc họa là một minh quân, ông vua mở nước, sinh dân, dựng làng, dựng nước… để rồi lưu truyền, tiếp nối các thế kỷ sau chính ông Vua này lại trở thành Thủy Tổ của người Việt, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai- hình thành nên khái niệm, nghĩa “đồng bào”.


    Giỗ Tổ Hùng Vương – Tri ân công đức Tổ Tiên đã trở thành tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt và trở thành minh triết trong văn hoá Việt Nam. Hướng về Đất Tổ- Cố kết cộng đồng dân tộc. Thành kính tri ân công đức Tổ tiên, ông cha ta đã ghi tạc câu đối treo tại lăng Hùng Vương: “Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quy về Đất Tổ. Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết khấn mồ Ông”. Đó là tiếng nói chung, tiếng nói nhân bản, là sự tự ý thức về nguồn cội của các thế hệ con cháu các Vua Hùng. Tất cả đều là đồng bào, là người trong một nước, cùng một Tổ, chung cội, chung giàn. Quan hệ đó đã đem lại tâm lý yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, thủy chung với nhau, cùng tồn tại và phát triển bền lâu; tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh đó đã đưa dân tộc ta lên đỉnh vinh quang của lịch sử, sánh vai với các cường quốc năm châu, bốn biển. Trải qua hơn 1000 năm bị phong kiến phương Bắc xâm lược đô hộ; hàng trăm năm bị thực dân, đế quốc thống trị; đất nước này không những không bị diệt vong mà quốc gia Việt Nam vẫn vững vàng, tồn tại và phát triển; văn hoá Việt Nam không những không bị đồng hoá mà trái lại đã dung nạp và làm chuyển hoá văn hoá ngoại lai, tiếp thu sự tinh tuý của văn hoá ngoại lai để hoà đồng phát triển cùng văn hoá dân tộc. Đó là sự thể hiện sức mạnh phi thường của dân tộc, sức mạnh đó được hình thành và đang phát triển bởi văn hiến hàng ngàn năm của dân tộc; văn hiến đó là sức mạnh của con người, của tinh thần đoàn kết cộng đồng được hình thành bằng ý thức vững vàng về nguồn cội, về quốc gia, dân tộc…, từ một gia tài quý báu do Tổ tiên để lại. Cộng đồng đó, dân tộc đó đã trao truyền cho nhau ngọn lửa thiêng Đất Tổ, tình yêu quê hương đât nước, nguyện quyết chí bảo vệ, giữ gìn non sông đất nước như của thiêng vật báu, không cam chịu để cơ nghiệp của Tiên Tổ rơi vào tay kẻ địch.


    Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương


    Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn vang vọng mãi khắp núi sông: “Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu”.


    Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim tìm tổ. Người tìm tông. Trở về Đền Hùng, chúng ta như giọt máu trở về tim. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam và có một đặc thù riêng là: Phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc, nhiều làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới. Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12/3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11/3 (âm lịch)… Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có nhiều làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong.


    Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn” nên giỗ Tổ Hùng Vương 1946 – sau khi Chính phủ mới được thành lập – là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng – Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền. Cụ còn trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe dọa trở lại. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chiến tranh ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm.
    Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng Điện Biên Phủ (7-5-1954), ngày 19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời căn dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực hiện vào mùa xuân 1975: Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên – một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.
    Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa. Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về:
    “Nước mở Văn Lang xưa
    Dòng vua đầu viết sử
    Mười tám đời nối nhau
    Ba sông đẹp như vẽ
    Mộ cũ ở lưng đồi
    Đền thờ trên sườn núi
    Muôn dân đến phụng thờ
    Khói hương còn mãi mãi”.
    Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên.
    Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng, mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. “Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam… Đền Hùng là một di tích vô giá của nhân dân Việt Nam. Đây là biểu tượng của tổ tiên dân tộc Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm”.


    *Bài viết có tính chất tham khảo cho những người quan tâm
    Nguồn http://gscaongoclan.com

     

    Có thể bạn quan tâm
    Thưởng hương trầm, ngâm thơ Kiều Truyện

    Thưởng hương trầm, ngâm thơ Kiều Truyện

    Giữa 3254 câu thơ bay bổng, hương (nhang) trầm được Nguyễn Du ưu ái nhắc đến...
    Top 3 mẫu đế cắm nhang trầm phổ biến nhất hiện nay

    Top 3 mẫu đế cắm nhang trầm phổ biến nhất hiện nay

    Thông thường khi nghĩ đến đến cắm trầm, chúng ta sẽ liên tưởng tới ngay hình ảnh bát...
    Cúng cô hồn thắp nhang gì?

    Cúng cô hồn thắp nhang gì?

    Lễ cúng cô hồn thường được thực hiện vào ngày mùng 2 hoặc 16 âm hàng...
    Nhang Trầm Hương Vân Mây: Sản phẩm mới cho người thưởng trầm

    Nhang Trầm Hương Vân Mây: Sản phẩm mới cho người thưởng trầm

    Trong cuộc sống hiện đại đầy hối hả, nhiều người tìm đến các sản phẩm nhang...
    Một nén nhang (hương) trầm nguyên chất được làm ra như thế nào?

    Một nén nhang (hương) trầm nguyên chất được làm ra như thế nào?

    Nén nhang (hương) từ lâu đã trở thành linh vật linh thiêng trong văn hóa thờ cúng của...
    Tại sao ngoài Bắc gọi hương - trong Nam gọi nhang?

    Tại sao ngoài Bắc gọi hương - trong Nam gọi nhang?

    Dạo gần đây Nhang Xanh nhận được rất nhiều câu hỏi được gửi về liên quan...